Khâu vết thương hở bằng súng bắng gel – Ứng dụng Y học triển vọng

Sự ra đời của keo y tế chính là một bước đột phá đối với ngành Y tế; từ nay sẽ không còn gặp phải những hạn chế trong việc khâu vết thương bằng kim chỉ như trước đây nữa. Với loại keo Y tế này, người bệnh sẽ không còn phải chịu cảnh từng mũi kim xuyên da thịt, tăng tính thẩm mỹ của vết thương đồng thời còn giúp hạn chế sẹo. Đây chính là hướng đi mới mang đến nhiều hứa hẹn đối với giới Y học.

Sự ra đời của keo y tế chính là một bước đột phá đối với ngành Y tế

Những hạn chế với phương pháp khâu truyền thống

Trước đây, khi muốn khâu vết thương; các bác sĩ phải tiêm thuốc gây tê rồi mới dùng chỉ khâu từng mũi. Với cách khâu vết thương này thường mắc phải những nhược điểm sau: chúng có thể gây đau đớn, để lại sẹo; đòi hỏi người bác sĩ phải có kỹ năng cao và đôi khi phải loại bỏ sau khi các mô lành lại. Nếu đây là vết khâu trên ruột, phổi hoặc mạch máu thường bị rò rỉ; do đó cần phải có chất trám kín lại.

Cùng với sự tiến bộ của y học; các nhà nghiên cứu đã cho ra đời một số loại băng khâu như 3M steri strips dùng để thay cho chỉ khâu truyền thống. Khi dùng loại băng khâu này; người bệnh không còn phải chịu đau đớn và rất ít để lại sẹo. Thế nhưng; băng khâu 3M steri strips vẫn có một vài hạn chế là phải dán từng đường keo riêng lẻ nên vết thương khó chặt và dễ bong tróc khi người bệnh cử động nhiều. Tiếp đó công nghệ Nano cũng đã được ứng dụng trong việc làm lành vết thương nhưng điều này vẫn có những nhược điểm nhất định.

Thế nhưng mới đây, một tin vui đã đến với giới Y học nói riêng và toàn thế giới nói chung; một kỹ thuật khâu vô cùng hiện đại đã khiến cho nhiều người cũng như cả giới Y học phải ngạc nhiên. Kỹ thuật mới này không những không cần phải dùng kim chỉ để khâu vết thương mà vết thương băng lại nhanh hơn rất nhiều; chặt và hạn chế tối đa tình trạng nhiễm trùng; giúp vết thương mau lành; không để lại sẹo cho cả vết thương bên ngoài và bên trong cơ thể.

Súng bắn gel – bước tiến thần kỳ của Y học

Sau một thời gian dài nghiên cứu, cuối cùng các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Technion; Israel đã cho ra đời một khẩu súng bắn keo có khả năng thay thế các vết khâu truyền thống. GS. Boaz Mizrahi – người đứng đầu Phòng thí nghiệm vật liệu sinh học của Technion cho biết: chất keo y tế mà các nhà nghiên cứu đã phát triển sẽ thay thế cả các mũi khâu và chất trám đồng thời tốt cho cả chấn thương bên trong và bên ngoài.

Keo y tế thực ra đã không còn quá xa lạ với Y học nhất là trong da liễu; phẫu thuật và một số lĩnh vực khác. Tuy nhiên; những loại keo hiện đang được sử dụng lại có nhiều hạn chế do tính cơ học và độc tính của chúng.

Ngoài ra; việc làm cứng các keo này có thể làm hạn chế sự linh hoạt của các cơ quan hoặc độ bám dính có thể không đủ mạnh. Chính vì những hạn chế trên; các nhà nghiên cứu đã tiếp tục nghiên cứu và tìm kiếm một loại keo phù hợp với các mô khác nhau, không độc hại và linh hoạt sau khi làm cứng… Đặc biệt; loại keo này cần có tính phân hủy trong cơ thể sau khi các mô lành hẳn.

Các nhà khoa học đã nghiên cứu và cho ra đời một sản phẩm như vậy. Người ta sẽ làm tan chảy keo và bôi nó lên mô bị hỏng được thực hiện bằng súng keo nóng. Súng làm ấm keo ở ngay trên nhiệt độ cơ thể để không gây bỏng.

Sau khi keo được áp dụng; nó nhanh chóng cứng lại, sau đó phân hủy trong vòng một vài tuần. Chất kết dính này cũng phù hợp để sử dụng trên các mô bên trong cơ thể và nó mạnh gấp 4 lần chất kết dính hiện có được sử dụng cho mục đích này. Các nhà nghiên cứu cho biết đã thử nghiệm trên các tế bào và động vật thí nghiệm, nó rất hiệu quả và không độc hại.

Các nhà nghiên cứu cho biết; họ đã hạ thấp điểm nóng chảy của polyme nhưng vẫn giữ được hoàn toàn những tính chất hóa học của nó. Việc sử dụng polyme cho các mục đích Y tế từ lâu đã được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt. Polyme có thể chèn vào súng bắn keo và tan chảy dưới áp suất tối thiểu. Nó được ép trực tiếp lên vết thương nơi nó đông cứng lại, liên kết mạnh mẽ với cả hai mép của vết thương.

Phát minh này đã được thử nghiên và thành công trên động vật và đã được cấp bằng sáng chế. Các nhà khoa học Israel hy vọng rằng sản phẩm này có thể được sử dụng rộng rãi tại các cơ sở Y tế trên nhiều quốc gia, mở ra kỉ nguyên mới cho Y học nhân loại.